Nguồn gốc chữ "Song Hỷ"

Vương An Thạch là người nước Tống. Vào năm 20 tuổi, chàng thư sinh Vương An Thạch lên kinh đô ứng thi. Khi đi qua ngôi nhà họ Mã ở một thị trấn, Vương An Thạch nhìn thấy nhà họ Mã treo đèn kết hoa, đặc biệt có treo một chiếc đèn kéo quân to, ở ngay trước cửa, trên đèn có ghi một vế đối: 

Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ
马灯,灯走,灯熄马停步 
Nghĩa là: “Đèn kéo quân, quân chạy là nhờ đèn, đèn tắt thì quân cũng ngừng chạy”. 
Vốn là học trò nên Vương An Thạch học nhẩm và có ý tìm câu đối lại. 
Khi thi, Vương An Thạch làm bài xong trước. Quan chủ khảo lấy làm lạ, bèn xem bài thi rồi giữ Vương An Thạch lại, ra một câu đối, nhằm vào lá cờ đang bay trước trướng :
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyên hộ tàng thân”.
飞虎旗,飞虎,旗卷虎藏身 
Nghĩa là: “Cờ hổ bay, hổ bay được là nhờ cờ, cờ cuộn lại thì hổ cũng thu mình”. 
Chợt nghĩ đến câu ghi trên cái đèn kéo quân của nhà họ Mã nọ, Vương An Thạch liền đọc ra để đối. Vì thế, quan chủ khảo thích thú khen ngợi và chú ý đến anh ta. 
Vương An Thạch, trên đường trở về để chờ tin tức kết quả cũng đi qua nhà họ Mã. Họ Mã mời vào chơi chuyện trò vui vẻ. Vì biết Vương An Thạch là một thư sinh, Mã Viên Ngoại chỉ câu đối viết trên đèn kéo quân chưa có ai đối được, có ý mời anh đối. Vương An Thạch lại nhớ đến câu “phi hổ kỳ” bèn đọc ra để đối với câu “tẩu mã đăng”. 
Câu đối thì hay, chữ viết thì như rồng bay phượng múa nên Mã Viên Ngoại thích quá bèn gả con gái quý cho. Lễ thành hôn được tổ chức ngay trong nhà họ Mã. Trong khi làm lễ thành hôn thì ngựa lưu tinh chạy đến báo tin “Vương An Thạch đã được đỗ bảng vàng, được nhà vua mời lên dự tiệc yến chiêu đãi”. Mã Viên Ngoại sung sướng bèn cho mở tiệc mừng thi đỗ bên tiệc cưới vu quy. 
Vương An Thạch đang "vui" vì được vợ đẹp, nay lại được thêm niềm "vui" thi đỗ, nên đã phóng tác lên tờ giấy hoa tiên hai chữ "Hỷ" ghép lền nhau, tạo nên chữ "Song Hỷ" như ngày nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét