Sau năm 1975, khi hai miền Nam Bắc đã được thống nhất, có một
ngày, một ông già tóc hoa râm đang thả bộ trên đường phố Sài Gòn bỗng nghe lời
ca từ một người hành khất cụt chân với cây đàn guitar cũ kỹ:
“Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt.
Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi tóc còn trong búi vai”. Lời ca
nghe sao quen quá. Ông lão mon men đến hỏi, và mới biết là bài “Những đồi hoa sim”.
Đó lần đầu tiên ông được nghe. Ông đề nghị người hành khất hát lại một lần nữa.
Nghe hát xong, ông vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là
tác giả bài thơ được phổ nhạc” rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ. Ông lão già đó
là Hữu Loan.
Bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan đã làm say lòng không biết
bao nhiêu thế hệ yêu thơ. Bài thơ kể lại mối tình của chính nhà thơ với người
phụ nữ đầu tiên trong đời đầy bi kịch, được viết ra để khóc người vợ mà nhà thơ
hằng yêu quý vừa bị chết thảm. Nỗi đau vợ chết thảm ông phải giấu kín trong
lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu
của họ. Ông như một cái xác không hồn. Càng đè nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn.
Một buổi trưa năm 1949, trong thời kỳ theo kháng chiến, lúc đang đóng quân ở
Nghệ An, cơn đau trong lòng ông được bung ra, ông ngồi lặng đi ở đầu làng, hai
mắt ông đẫm ướt, ông lấy bút ra ghi chép. Không cần phải suy nghĩ nhiều, những
câu những chữ mộc mạc cứ trào ra.
Tuy không ấn hành, nhưng bài thơ đã được truyền miệng rộng rãi và
sau đó được Nguyễn Bính đăng trên tờ “Trăm Hoa”. Rồi bi kịch chiến tranh trong
bài thơ đã góp phần trở thành bi kịch của đời nhà thơ.
“Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi
là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại
không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với
người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ Đảng, bỏ cơ quan, về
nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi
muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về”. Đó là lời ông tự thuật. Năm
1988, khi có sự “Đổi mới”, ông đã viết bài “Lời Tự Thuật” gửi cho báo Lao động
Chủ nhật nhưng không được đăng, để 19 năm sau, nhà thơ lúc ấy đã 91 tuổi, đồng
ý cho Talawas công bố bài trên.
“Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng
đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi, hay cãi, thích
chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi. Bọn họ chê tôi ủy mị,
hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ. Tôi
thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi, với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi”.
Đó cũng là tâm tình của ông trong “Lời Tự Thuật”.
Về quê cũng không yên, “bọn họ” (từ ông dùng) tịch thu xe của ông,
ông phải đi xe cút kít. Xe cút kít họ cũng không cho, nên ông phải gánh bộ.
Gánh bằng vai, ông cũng cứ gánh, không chịu khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản.
Đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại ông, nhưng lúc nào cũng có
người cứu ông. Thơ của ông cũng đã có lần cứu sống ông. Có một công an mật được
giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát ông, nhưng người đó đã tìm gặp và nói, hắn
sinh ở Yên Mô, rất thích bài thơ Yên Mô của ông viết về tỉnh Yên Bình quê hắn.
Hắn thường đem bài thơ Yên Mô của ông ra đọc cho đỡ nhớ, và mỗi lần định giết
ông, hắn lại nhớ đến quê mình nên lại thôi, không nỡ giết ông, từ bỏ ý định ám
sát.
Rồi ông đến với người vợ sau, bà Phạm Thị Nhu, trong một hoàn cảnh thật tang thương.
(Chuyện "Cải cách ruộng đất qua lời kể của nhà thơ Hữu Loan"). Với bà Phạm Thị Nhu, ông cũng có một bài thơ để đời, tuy không nổi
tiếng bằng “Màu tím hoa sim”, bài “Hoa lúa”:
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Cuộc đời ông trải qua quá
nhiều thăng trầm. Trong mấy chục năm dài, ông về quê an phận thủ thường, chẳng
màng đến thế sự, vậy mà “bọn họ” vẫn trù dập, không chịu để ông yên. Ông chỉ
còn biết đổ đau thương lên đá. Ông tưới rượu lên mặt đá và thề sẽ bám đá mà
sống. Ngày ngày, ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi
bán ở các nơi làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngày hai bữa
cơm dưa muối cho đàn con. Nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai
hỏi mua. Thời gian trôi qua, Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen đúa, chân
tay chai sần, rắn rỏi, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ hơn xưa.
Cặm cụi vật lộn với núi đá, ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Hơn mười năm sau
cùng, tuổi đã lớn, Hữu Loan thôi không còn sức để bám núi đá nữa. Ông lui về
nhà, trải chiếu trên thềm, ngày ngày ngồi nhâm nhi rượu và ngóng đợi con cháu
về thăm, ngóng đợi những chuyển động đổi thay phận mình, đổi thay cho gia đình,
cho làng xóm, cho nước nhà.
Cuối năm 2004, vào cái tuổi gần đất xa trời, công ty ViTek VTB đột
nhiên đề nghị mua bản quyền bài “Màu tím hoa sim” của ông với gía 100 triệu
đồng VN. Đây là một sự kiện được coi chưa từng xảy ra. Từ trước tới nay chưa có
bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến như vậy. Vì sao một doanh nghiệp
thương mãi lại đi mua bản quyền một bài thơ? Có nguồn tin cho rằng đây là một
sự sắp xếp, mua chuộc, để đền bù những mất mát thiệt thòi trong mấy chục năm
của ông. 100 triệu đồng đủ để ông trang trải cuộc sống, bớt đi những khó khăn
về vật chất trong những năm cuối đời, và mong ông “tái xuất giang hồ”. 100
triệu đồng trừ thuế còn 90 triệu, ông chia cho 10 người con hết 60 triệu, trích
một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan và ông giữ lại 30
triệu phòng đau ốm lúc tuổi gìa. Sau đó cũng có một số công ty khác xin ký hợp
đồng mua mấy bài thơ khác nhưng ông từ chối “Thơ tôi làm ra không phải để bán”.
Bài thơ “Màu tím hoa sim” đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Bài
"Những đồi hoa sim" do Dzũng Chinh là bài được phổ biến sớm nhất
(1962), được ca sĩ Phương Dung trình bày, phổ theo điệu Tango – Habanera, là
điệu thịnh hành của giới trẻ thời đó. "Màu tím hoa sim" do Duy Khánh
phổ nhạc với giọng ca Hoàng Oanh là bài được lưu hành sau đó. Đây là bài phổ
nhạc vẫn giữ hầu như nghuyên vẹn lời bài thơ gốc của Hữu Loan, cũng trên nhịp
điệu Tango – Habanera. Nổi tiếng nhất, do Thái Thanh thể hiện là bài "Áo anh sứt chỉ đường tà" được bàn
tay "phù thủy" của Phạm Duy sắp xếp lại để chuyển từ Thi sang Ca. Bài
thơ được phổ ra nhạc theo kiểu trường ca, nhiều đoạn, nhiều hình thức thể hiện
khác nhau như nhạc kịch opera. Và “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng mà người trình
bày thành công nhất có lẽ là ca sĩ Như Quỳnh.
Thi sĩ Hữu Loan ra đi vào ngày 18 tháng 3 năm
2010. Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, Hữu Loan đã chia
tay nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cho đời một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ
như huyền thoại, để lại cho hậu thế không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách
sống. Huyền thoại một nhà thơ bất khuất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét